Bạn Có Câu Hỏi Gì?
Ví dụ: Hôn Nhân, Tình Dục, Tiền Bạc, Khủng Long, Thuốc Lá, Xăm Hình, v,v ...

*Xin đánh tiếng việt có dấu hoặc sử dụng tiếng anh.
*Hiện tại việc dịch thuận tài liệu vẫn đang cần rất nhiều đóng góp. Nếu bạn có thể đóng góp, hãy liên hệ facebook qua trang thông tin.
Bộ Gõ:   Off   Telex   VNI   VIQR  

John the Baptist là ai trong Kinh thánh?

Người trả lời: Ta là tiếng của người kêu trong đồng vắng rằng: Hãy ban đường của Chúa cho bằng, như đấng tiên tri Ê-sai đã nói.
Giăng 1:23
Mặc dù tên của anh ấy ám chỉ rằng anh ấy đã làm phép báp têm cho mọi người (mà anh ấy đã làm), nhưng cuộc sống của Giăng trên đất không chỉ là làm báp têm. Cuộc đời trưởng thành của John được đặc trưng bởi sự tận tụy và đầu phục Chúa Giê-xu Christ và vương quốc của Ngài. Giọng nói của Giăng là "tiếng nói đơn độc trong đồng vắng" (Giăng 1:23) khi ông công bố sự đến của Đấng Mê-si-a cho một dân tộc đang rất cần một Đấng Cứu Rỗi. Anh ấy là tiền thân của nhà truyền giáo thời hiện đại khi anh ấy chia sẻ tin mừng về Chúa Giê-su Christ một cách không xấu hổ. Ông là một người tràn đầy đức tin và là một tấm gương cho chúng tôi, những người muốn chia sẻ đức tin của mình với người khác.
Có tiếng kêu rằng: Hãy mở đường trong đồng vắng cho Đức Giê-hô-va; hãy ban bằng đường cái trong đất hoang cho Đức Chúa Trời chúng ta!
Ê-sai 40: 3
Hầu hết mọi người, tín đồ cũng như không tin, đều đã nghe nói về Giăng Báp-tít. Ông là một trong những nhân vật quan trọng và nổi tiếng nhất trong Kinh thánh. Mặc dù Giăng được gọi là "Người Báp-tít", nhưng trên thực tế, ông là nhà tiên tri đầu tiên được Đức Chúa Trời kêu gọi kể từ Ma-la-chi khoảng 400 năm trước đó. Sự xuất hiện của Giăng đã được một nhà tiên tri khác báo trước hơn 700 năm trước: "Có tiếng kêu gọi: \'Trong đồng vắng hãy dọn đường cho Đức Giê-hô-va; trong đồng vắng hãy mở một con đường ngay thẳng cho Đức Chúa Trời chúng ta. Mọi thung lũng, mọi ngọn núi sẽ được bồi đắp. đồi sẽ bị bạt; nơi gồ ghề sẽ trở nên bằng phẳng, nơi gồ ghề nên đồng bằng. Vinh quang của Đức Giê-hô-va sẽ tỏ ra, và cả nhân loại sẽ cùng nhau chiêm ngưỡng. Vì miệng Đức Giê-hô-va đã phán vậy\'" (Ê-sai 40: 3–5).
Hai người không có con, vì Ê-li-sa-bét son sẻ, và cả hai đều cao tuổi.
Lu-ca 1:7
Sự ra đời của John thật kỳ diệu. Ngài sinh ra trong một gia đình già yếu không thể có con (Lu-ca 1:7). Thiên sứ Gáp-ri-ên báo cho Xa-cha-ri, một thầy tế lễ người Lê-vi, rằng ông sẽ có một con trai—tin mà Xa-cha-ri nhận được với sự hoài nghi (câu 8–18). Gabriel đã nói điều này về John: “Anh ấy sẽ trở nên cao cả trước mặt Chúa. Anh ta . . . sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần ngay cả trước khi anh ta được sinh ra. Người sẽ đem nhiều người Ít-ra-en trở về với Chúa là Thiên Chúa của họ. Và ông sẽ tiến lên trước mặt Chúa, trong tinh thần và quyền năng của Ê Li, . . . để chuẩn bị một dân sẵn sàng cho Chúa” (các câu 15–17). Đúng như lời Chúa, bà Ê-li-sa-bét, vợ Xa-cha-ri, sinh ông Gio-an. Tại lễ cắt bì, Xa-cha-ri nói về con trai mình: “Con ơi, sẽ được gọi là ngôn sứ của Đấng Tối Cao; / vì ngươi sẽ đi trước mặt Đức Giê-hô-va, dọn đường cho Ngài” (câu 76).
Giăng có quan hệ họ hàng với Chúa Giê-xu, vì mẹ của họ là họ hàng (Lu-ca 1:36). Thật vậy, khi thiên thần Gabriel nói với Mary rằng bà sẽ sinh ra Chúa Giêsu, ông cũng nói với bà về John. Khi Ma-ri mang Chúa Giê-su trong lòng, bà đến thăm bà Ê-li-sa-bét, và Giăng nhảy mừng trong lòng mẹ khi nghe tiếng của Ma-ri (Lu-ca 1:39-45).
Khi trưởng thành, John sống một cuộc sống gian khổ ở vùng núi Judea, giữa thành phố Jerusalem và Biển Chết. Anh ta mặc quần áo làm từ lông lạc đà với thắt lưng da quanh eo, trang phục điển hình của một nhà tiên tri. Chế độ ăn uống của ông rất đơn giản—châu chấu và mật ong rừng (Ma-thi-ơ 3:4). John sống giản dị khi tập trung vào công việc vương quốc đặt ra trước mắt.
Chức vụ của Giăng Báp-tít ngày càng được nhiều người biết đến, như được thuật lại trong Ma-thi-ơ 3:5–6: "Dân chúng từ Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê và cả vùng sông Giô-đanh đến với ông. ." Việc được Giăng làm phép báp têm có nghĩa là thừa nhận tội lỗi của mình và hối cải về tội lỗi đó—dĩ nhiên, đó là một cách tuyệt vời để chuẩn bị cho sự tái lâm của Đấng Cứu Rỗi. Sự ăn năn liên quan đến phép báp têm của Giăng cũng giữ cho những người tự cho mình là công bình khỏi nước, vì họ không coi mình là tội nhân. Đối với những người tự cho mình là công bình, Giăng có những lời lẽ nghiêm khắc, gọi họ là "dòng dõi rắn lục" và cảnh báo họ đừng dựa vào dòng dõi Do Thái của mình để được cứu rỗi, mà hãy ăn năn và "kết quả xứng đáng với sự ăn năn" (Ma-thi-ơ 3:7– 10). Người thời đó đơn giản là không nói với các nhà lãnh đạo, tôn giáo hay cách khác, theo cách này vì sợ bị trừng phạt. Nhưng đức tin của John khiến anh không sợ hãi trước sự chống đối.
Ý kiến ​​chung về Giăng Báp-tít là ông là một tiên tri của Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 14:5), và nhiều người có thể nghĩ rằng ông là Đấng Mê-si-a. Đây không phải là ý định của anh ấy, vì anh ấy có một tầm nhìn rõ ràng về những gì anh ấy được kêu gọi để làm. Trong Giăng 3:28, Giăng nói: "Chính các ngươi có thể làm chứng rằng ta đã nói: \'Ta không phải là Đấng Christ, nhưng được sai đến trước Ngài.\'" Giăng cảnh báo các môn đồ rằng những gì họ đã thấy và nghe từ ông chỉ là bước đầu phép lạ sẽ đến dưới hình dạng của Chúa Giê Su Christ. Gioan chỉ là một sứ giả được Thiên Chúa sai đến để loan báo sự thật. Sứ điệp của Ngài rất đơn giản và trực tiếp: “Hãy ăn năn, vì nước thiên đàng đã đến gần” (Ma-thi-ơ 3:2). Ông biết rằng, một khi Chúa Giê-xu xuất hiện, công việc của Giăng gần như đã hoàn tất. Anh sẵn sàng nhường sự chú ý cho Chúa Giê-xu, nói rằng,
Có lẽ không có tấm gương khiêm nhường nào tuyệt vời hơn điều được thấy nơi cả Chúa Giê-su và Giăng trong Ma-thi-ơ 3:13–15. Chúa Giêsu từ Galilê đến để được Gioan làm phép rửa ở sông Giođan. Giăng đã nhận ra một cách đúng đắn rằng Con Đức Chúa Trời vô tội không cần phép báp têm ăn năn và chắc chắn ông không xứng đáng để làm phép báp têm cho chính Đấng Cứu Rỗi của mình. Nhưng Chúa Giê-xu đã trả lời mối quan tâm của Giăng bằng cách yêu cầu phép báp têm “để làm trọn mọi sự công bình,” có nghĩa là Ngài đồng hóa mình với những tội nhân mà cuối cùng Ngài sẽ hy sinh chính mình, nhờ đó bảo đảm mọi sự công bình cho họ (2 Cô-rinh-tô 5:21). Với lòng khiêm nhường, Giăng đã vâng lời và đồng ý làm phép báp têm cho Chúa Giê-su (Ma-thi-ơ 3:13–15). Khi lên khỏi nước, Chúa Giêsu “trời mở ra, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống như chim bồ câu và đậu trên Người. Và có tiếng từ trời phán rằng: \'Đây là Con Ta, người tôi yêu; tôi hài lòng về người\'” (các câu 16–17).
Sau đó, vua Hêrôđê tống giam Gioan Tẩy Giả. Herod đã kết hôn với vợ cũ của anh trai mình, Philip. Giăng mạnh dạn lên tiếng phản đối cuộc hôn nhân này, khiến Hê-rô-đia, vợ mới của Hê-rốt, rất ghét (Lu-ca 3:19–20; Mác 6:17–20). Khi ở trong tù, Giăng đã nghe về mọi việc Chúa Giê-xu đang làm. Trong lúc dường như có sự nghi ngờ, Giăng đã sai các môn đồ của mình đến gặp Chúa Giê-xu để hỏi xem Ngài có thực sự là Đấng Mê-si-a không. Chúa Giê-su đáp lại bằng cách bảo những người đàn ông kể lại cho Giăng những gì họ đã thấy và nghe—những lời tiên tri đang được ứng nghiệm. Chúa Giêsu không bao giờ quở trách Gioan; đúng hơn, Ngài đưa ra bằng chứng rằng Ngài là Đấng Cứu Rỗi đã hứa (Ma Thi Ơ 11:2–6; Lu Ca 7:18–23). Sau đó, Chúa Giê-su nói với đám đông về Giăng, nói rằng ông là sứ giả được tiên tri sẽ đến trước Đấng Mê-si-a (Ma-thi-ơ 11:10; Lu-ca 7:27; xem Ma-la-chi 3:1). Chúa Giê-xu cũng nói, “Ta bảo thật các ngươi, giữa những người do đàn bà sinh ra, không có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả; nhưng kẻ nhỏ nhất trong nước thiên đàng còn lớn hơn Ngài” (Ma-thi-ơ 11:11; Lu-ca 7:28).
Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả, cũng như cuộc đời của ông, đột ngột kết thúc dưới bàn tay của Vua Hêrôđê. Trong một hành động trả thù khôn tả, Herodias cùng con gái âm mưu giết John. Một đêm nọ, con gái của Hê-rô-đia khiêu vũ cho Hê-rốt và những vị khách dự tiệc của ông, và Hê-rốt rất hài lòng nên nói với cô: “Bà muốn gì thì cứ xin, tôi sẽ cho” (Mác 6:22). Cô gái hỏi ý kiến ​​mẹ mình trước khi bà trả lời rằng cô muốn có đầu của Giăng Báp-tít trên đĩa (câu 25). Hêrôđê đã sợ Gioan “biết ông là người công chính thánh thiện” (câu 20) nên đã ghê tởm giết nhà tiên tri, nhưng lại hứa sẽ ban cho cô vũ nữ bất cứ điều gì cô xin. Vì John đã ở trong tù, nên việc cử đao phủ chặt đầu John là một việc đơn giản, đó chính xác là những gì đã xảy ra (Mác 6:27–28). Đó là một kết thúc đáng buồn và nhục nhã cho cuộc đời của một người đàn ông chung thủy như vậy.
Có một số bài học chúng ta có thể học được từ cuộc đời của Giăng Báp-tít. Một bài học là việc hết lòng tin vào Chúa Giê Su Christ là điều có thể làm được. Gioan biết rằng Đấng Mêsia sẽ đến. Ông hết lòng tin điều này và dành cả ngày để “dọn đường” cho Chúa đến (Ma-thi-ơ 11:10). Nhưng con đường không phải là một con đường dễ dàng để chuẩn bị. Hàng ngày, ông phải đối mặt với những kẻ nghi ngờ, những người không chia sẻ sự nhiệt tình của ông đối với Đấng Mê-si sắp đến. Trước sự chất vấn gay gắt của những người Pha-ri-si, Giăng chia sẻ niềm tin của mình: “Tôi làm phép báp-têm bằng nước... nhưng giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết. Ngài là Đấng đến sau ta, ta không đáng xỏ dép cho Ngài. cởi trói cho” (Giăng 1:26–27). Giăng đã tin vào Đấng Christ, và đức tin lớn lao của ông đã giúp ông vững bước trên con đường của mình cho đến lúc ông có thể nói khi thấy Chúa Giê-xu đến gần, “Kìa,
Mặc dù khó biết chắc John cảm thấy thế nào khi ngồi trong tù, nhưng chắc chắn là anh có vẻ nghi ngờ. Nhưng Giăng đã gửi một thông điệp đến Chúa Giê-su trong nỗ lực tìm kiếm sự thật. Là Cơ đốc nhân, tất cả chúng ta sẽ bị thử thách đức tin, và chúng ta sẽ chùn bước trong đức tin của mình hoặc giống như Giăng, bám chặt vào Đấng Christ, tìm kiếm lẽ thật và đứng vững trong đức tin của mình cho đến cùng.
Cuộc đời của John là một tấm gương cho chúng ta về mức độ nghiêm túc mà chúng ta phải tiếp cận với đời sống Cơ đốc nhân và sự kêu gọi của chúng ta vào chức vụ, bất kể đó có thể là gì. John đã sống cuộc đời của mình để giới thiệu cho người khác về Chúa Giê-xu Christ; anh ấy tập trung vào sứ mệnh mà Chúa đã giao cho anh ấy. Gioan cũng biết tầm quan trọng của việc sám hối tội lỗi để sống một cuộc đời thánh thiện và ngay chính. Và với tư cách là tôi tớ của Đức Chúa Trời, ông cũng không ngại nói ra lẽ thật, ngay cả khi điều đó có nghĩa là chỉ trích những người như Hê-rốt và người Pha-ri-si về hành vi tội lỗi của họ.
Giăng được giao phó một chức vụ độc nhất, tuy nhiên chúng ta cũng được kêu gọi chia sẻ lẽ thật về Chúa Giê-xu với những người khác (Ma-thi-ơ 28:18–20; Giăng 13:34–35; 1 Phi-e-rơ 3:15; 2 Cô-rinh-tô 5:16 –21). Chúng ta có thể noi gương của Giăng về sự tin cậy trung thành và vâng lời nơi Đức Chúa Trời khi chúng ta sống và công bố chân lý của Ngài trong bất kỳ hoàn cảnh sống nào mà Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta.
* Kinh Thánh Tham Khảo:
Giăng 1:23 - Người trả lời: Ta là tiếng của người kêu trong đồng vắng rằng: Hãy ban đường của Chúa cho bằng, như đấng tiên tri Ê-sai đã nói.
Ê-sai 40: 3 - Có tiếng kêu rằng: Hãy mở đường trong đồng vắng cho Đức Giê-hô-va; hãy ban bằng đường cái trong đất hoang cho Đức Chúa Trời chúng ta!
Lu-ca 1:7 - Hai người không có con, vì Ê-li-sa-bét son sẻ, và cả hai đều cao tuổi.
Lu-ca 1:39 - Trong những ngày đó, Ma-ri chờ dậy, lật đật đi trong miền núi, đến một thành về xứ Giu-đa,
Ma-thi-ơ 3:4 - Vả Giăng mặc áo bằng lông lạc đà, buộc dây lưng bằng da; ăn, thì ăn những châu chấu và mật ong rừng.
Ma-thi-ơ 3:7 - Bởi Giăng thấy nhiều người dòng Pha-ri-si và Sa-đu-sê đến chịu phép báp-tem mình, thì bảo họ rằng: Hỡi dòng dõi rắn lục kia, ai đã dạy các ngươi tránh khỏi cơn giận ngày sau?
Ma-thi-ơ 3:2 - rằng: Các ngươi phải ăn năn, vì nước thiên đàng đã đến gần!
II Cô-rinh-tô 5:21 - Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời.
Lu-ca 7:28 - Ta nói cùng các ngươi, trong những người bởi đàn bà sanh ra, không có ai lớn hơn Giăng Báp-tít đâu; nhưng trong nước Đức Chúa Trời, kẻ rất nhỏ còn lớn hơn Giăng vậy.
Mác 6:27 - Vua liền sai một người lính thị vệ truyền đem đầu Giăng đến.

* Bản Dịch theo GotQuestions
* Nếu bạn cảm thấy bản dịch này chưa đúng hoặc chưa phù hợp, xin hãy liên hệ và đóng góp bản dịch mới.